Đăng ký

Hướng dẫn soạn bài Chí khí anh hùng

1,493 từ Soạn bài

   Câu 1: Anh (chị) hãy cho biết hàm nghĩa các cụm từ “lòng bốn phương” và “mặt phi thường”. Tìm những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải.

   Đọc lại phần chú thích:

  - Lòng bốn phương: “Bốn phương” (nam, bắc, đông, tây) có nghĩa là thiên hạ, thế giới. Theo Kinh Lễ, xưa sinh con trai, người ta làm cái cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng (nói tắt: tang bồng) bắn tên ra bốn phương tượng trưng cho mong muốn sau này người con trai làm sự nghiệp lớn. Lòng bốn phương - chí nguyện lập công dân, sự nghiệp (Nguyễn Công Trứ: “Chí làm trai nam bắc tây dòng. Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”).

  - Phi thường, không giống cái bình thường, tức là xuất chúng hơn người. Các cụm từ này là những hình tượng khái niệm có tinh chất vũ trụ (lòng bốn phương) và phẩm chất xuất chúng hơn người (mặt phi thường). Đây cũng là những hình tượng văh học để cho thấy rõ những người anh hừng là những người có tầm vóc vũ trụ, họ xuất chúng phi phàm.

   Như thế các yếu tố thi pháp tả người anh hùng trong văn học thời trung đại là thường gắn với hình tượng thiên nhiê, không gian vũ trụ.

  Những từ ngữ thể hiện sự trân trọng và kính phục của Nguyễn Du với tứ phương, mặt phi thường, chim bàng( hình tượng để nói về Từ Hải), anh hùng (để gọi Từ Hải), thoắt (chỉ sự dứt khoát, mau lẹ cương quyết).

Câu 2. Từ Hải bộc lộ lí tưởng anh hùng của mình qua lời nói với Thúy Kiều như thế nào?

   Từ Hải bộc lộ tí tưởng anh hùng của mình qua lời nói với Thúy Kiéu:

                                       Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,

                                Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".

                                      Tử ròng: "Tâm phúc tương tri

                               Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình..."

    Đúng là Từ Hải đã khống quyến luyến, vướng bận tính yêu mà quên lí tưởng cao cả. Chàng đã không đống ý cho Kiều di theo còn cho bịn rịn là thói thường nhi nữ. Cũng trong lời nói của Từ Hải với Kiều, cái hình ảnh thuộc phạm trù không gian là mười vạn tinh binh, tiếng chiêng, bóng cờ gợi lên khát vọng lớn lao tang bồng hồ thỉ với tỉm vóc vũ trụ của người anh hùng thời xưa:

                                       Bao giờ mười vạn tinh binh

                              Tiếng chiềng dậy dát, bóng tinh rợp dường.

   Ngoài ra, chàng còn khẳng định lòng quyết tâm của mình và sự thành công là tất yếu qua từ chỉ thời gian.

                                 ... "Đành lòng chờ đó ít lâu

                            Chầy chăng là một năm sau vội gì!”.

  Lời Ước hẹn của Từ Hải ngắn gọn thật dứt khoát và chắc nịch tương ứng với từ "thoắt” đã viết bên trên.

Câu 3: Nêu nhận xét về đặc điểm của cách miêu tả (hiện thực hay lí tưởng hoá) người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích. Đây có phải là cách miêu tả phổ biến của văn học trung đại không?

   Cách miêu tả người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích có hai dặc điểm chính. Một là hình tượng có tính ước lệ. Hai là hình tượng con người có tầm vóc vũ trụ phi phàm. Trong văn học trung đại, người anh hùng là nhân vật lí tưởng. Ở đây, Nguyễn Du đã tổng kết được những khuôn mặt để miêu tả nhân vật người anh hùng. Hai mặt ước lệ và cảm hứng vũ trụ đã kết chặt với nhau. Lòng bốn phương là khái niệm hàm ý diễn tả lí tưởng của con người vũ trụ. Hình tượng "trông vời trời bể mênh mang" cũng vừa ước lệ, vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải. Tương tự, là các hình tượng bốn bể chim bàng, gió mây... còn một nét dặc trung nữa của người anh hùng là suy nghĩ gọn gàng dứt khoát: thoắt, thẳng rong, dứt áo ra đi.

shoppe